Học tập công nghệ cao của thế giới

0
2132
image_printIn bài viết

(AGO) – “ĐBSCL vốn được thiên nhiên ưu đãi về khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng, nhiều loại cây trồng, vật nuôi cho năng suất, chất lượng cao. Tuy nhiên, nông sản vẫn chưa tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới bởi chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng cũng như việc quảng bá chưa hiệu quả. Đây là những vấn đề cần học hỏi kinh nghiệm thế giới để nâng sức cạnh tranh khi hội nhập” – ông Phạm Công Tạc, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH-CN) nhấn mạnh.

Lo cho nông nghiệp

Là người có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu nông nghiệp ứng dụng công nghệ (NNƯDCNC) ở Australia, GS.TS. Nguyễn Quốc Vọng, chuyên gia cao cấp của Đại học RMIT, không khỏi lo lắng cho nông nghiệp Việt Nam, nhất là khi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực, nhiều nước tham gia có nền nông nghiệp tiên tiến hơn nước ta.

Nhìn lại năm 2015, GDP của Việt Nam lần đầu tiên đạt chỉ tiêu sau nhiều năm sụt giảm nhưng tăng trưởng của nông nghiệp lại rơi xuống thấp. “Năm 2015, Việt Nam trồng 7,83 triệu héc-ta lúa, thu hoạch 45,2 triệu tấn. Trong số 6,7 triệu tấn gạo xuất khẩu của cả nước, ĐBSCL chiếm 6 triệu tấn (90%). Điều đáng buồn là dù Việt Nam vẫn nằm trong tốp xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng kim ngạch năm 2015 chỉ đạt 2,85 tỷ USD, giảm 2,9% so năm 2014. Nguyên nhân do giá xuất khẩu trung bình từ mức 462 USD/tấn năm 2014 giảm còn 425 USD/tấn năm 2015. Thậm chí, ngày 1-10-2015, Việt Nam trúng thầu cung cấp 1 triệu tấn gạo cho Indonesia nhưng chỉ được giá 343,75 USD/tấn, chấp nhận bán lỗ 118,25 USD/tấn. Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam nhưng thị phần sụt giảm nghiêm trọng. Nếu như năm 2012 – 2013, Việt Nam chiếm hơn 65% thị phần nhập khẩu gạo của Trung Quốc thì năm 2014 còn 53%, đến năm 2015 chỉ còn 32%. Những nước thế chân Việt Nam là Thái Lan, Campuchia và Pakistan” – ông Vọng phân tích.

T1-1.jpg

Theo vị chuyên gia này, nguyên nhân gạo Việt Nam mất giá trị do nông dân trồng quá nhiều giống lúa, khi mua thì hàng xáo phối trộn đủ thứ khiến người tiêu dùng không an tâm về nguồn gốc, xuất xứ. “Ngay tại ĐBSCL, người dân vẫn thích sử dụng gạo Campuchia bởi họ tin rằng, đó là gạo lúa mùa (gạo sóc), ít sử dụng thuốc trừ sâu nên an toàn, hơn nữa, giá cả rất ổn định. Gạo là mặt hàng giữ được lâu mà còn gặp khó khăn như vậy, dễ hiểu vì sao rau màu, trái cây của Việt Nam khó xuất khẩu bởi công nghệ bảo quản, giữ tươi của chúng ta chưa tốt” – ông Vọng nói thêm.

Cần đột phá

Dù nhìn nhận nhu cầu nhập khẩu gạo của Indonesia, Philippines và Châu Phi sẽ tăng nhưng GS.TS. Nguyễn Quốc Vọng cho biết, giá xuất khẩu gạo đến năm 2020 sẽ giảm 7% (theo dự báo của Ngân hàng Thế giới), do vậy khó kỳ vọng vào sự đóng góp lớn hơn của ngành xuất khẩu gạo cho kinh tế Việt Nam. Ngược lại, ngành rau, quả lại có triển vọng rất lớn. “Năm 2015 có thể coi là năm thành công nhất của ngành rau, quả Việt Nam khi kim ngạch xuất khẩu đạt kỷ lục 2,2 tỷ USD, tăng 47% so năm 2014. ĐBSCL có diện tích rau, quả lớn nhất nước khi sản xuất được 15 triệu tấn rau và 1 triệu tấn quả các loại” – ông Vọng thông tin.

Vị chuyên gia này cho rằng, cơ hội đối với ngành rau, quả ĐBSCL vẫn còn rất lớn khi thị trường nhập khẩu rau, quả thế giới lên đến 97 tỷ USD, trong khi thị trường gạo chỉ có 16 tỷ USD. “Nhật Bản là thị trường nhập khẩu rau, quả lớn nhất thế giới. Do điều kiện trồng rau, quả ở Nhật Bản không thuận lợi nên thời gian gần đây, người Nhật đã đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp ở Việt Nam. Chỉ riêng năm 2015, người Nhật đã mở rộng diện tích trồng rau ở Lâm Đồng lên 53.660 héc-ta, áp dụng công nghệ hiện đại, tạo nên những “làng thần kỳ” ngay tại Việt Nam. Đây là điều mà chúng ta cần học hỏi ở họ” – ông Vọng chia sẻ thêm. “Tôi nghĩ, những nhà hoạch định nông nghiệp nên định hướng cho nông dân không nên quá chú trọng về sản lượng, mà cần quan tâm đến công nghệ sản xuất, công nghệ chế biến để làm sao đảm bảo được nông sản sạch, an toàn, chất lượng cao nhưng giá thành cạnh tranh. Đây là điều mà nhiều nước tham gia TPP đã làm được, chúng ta cần học hỏi một cách nghiêm túc” – ông Vọng nhấn mạnh.

Đồng quan điểm này, Thứ trưởng Bộ KH-CN Phạm Công Tạc cho biết, nếu như 20 năm trước, có “tìm mỏi mắt” ở thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ vẫn không thấy được thương hiệu Việt Nam thì khoảng 10 năm nay, có vài thương hiệu xuất hiện nhưng còn quá ít. “Khi gia nhập TPP, AEC cùng các hiệp định thương mại tự do khác, cơ hội thâm nhập thị trường thế giới rộng mở hơn, doanh nghiệp đứng trước lợi thế rất lớn nhưng muốn tận dụng được thì phải liên kết, xây dựng chuỗi giá trị có bài bản, thay đổi tư duy sản xuất của nông dân. Việc các nước xây dựng hàng rào kỹ thuật là một thách thức nhưng cũng là cơ hội để chúng ta thay đổi sản xuất, học tập kinh nghiệm nhằm đáp ứng yêu cầu của họ. Nếu tận dụng tốt, nhiều thách thức sẽ trở thành lợi thế” – ông Tạc chia sẻ.

“Ở Australia, người ta trồng giống lúa Sherpa có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu rất tốt, đặc biệt là khả năng chịu hạn, thiếu nước. Thay vì cứ tập trung tạo ra giống lúa năng suất cao, các nhà khoa học nên nghiên cứu giống lúa này nhằm tạo ra giống lúa thích ứng với hạn, mặn vùng ĐBSCL. Trong canh tác, nên trồng một loại giống trên cùng một vùng đất nhằm xây dựng thương hiệu cho lúa gạo Việt Nam” – GS.TS. Nguyễn Quốc Vọng đề nghị.

 

 NGÔ CHUẨN